Icon Collap
...
Trang chủ / Thiên Chúa đáng để cho con tin!

Thiên Chúa đáng để cho con tin!

Từ nhỏ, con đã sinh ra và lớn lên trong một gia đình không theo đạo nào cả, do đó từ bé trong môi trường giáo dục của gia đình con chỉ nhìn thấy đạo lý thờ phụng tổ tiên ông bà của ông bà nội ngoại, cậu cô chú bác và cha mẹ con. Con được dạy cần phải nhớ và thờ phụng tổ tiên để giữ chữ hiếu và để báo đáp công ơn dưỡng dục, sinh thành để sống tốt hơn trong cuộc sống hàng ngày. Với niềm tin đó, con đã hình thành một niềm tin về cuộc sống hôm nay và cuộc sống mai sau, ở đó có tổ tiên ông bà, có cuộc sống vong linh những người đã khuất.

Lớn lên, bắt đầu các bậc học, con được đào tạo từ bé cho đến cấp đại học hôm nay về quan điểm triết học duy vật biện chứng, với những bài học về thế giới quan nhìn nhận là vật chất quyết định ý thức, là chủ nghĩa Mác-Lê Nin, với những học thuyết vô thần: Tư tưởng vô thần được ghi nhận bởi nhiều triết thuyết khác rộng hơn, chẳng hạn như chủ nghĩa hiện sinh, thuyết khách quan, chủ nghĩa nhân văn thế tục, thuyết hư vô, chủ nghĩa chứng thực logic, chủ nghĩa Marx, thuyết nam nữ bình quyền và các phong trào khoa học và duy lý nói chung. Chủ nghĩa chứng thực logic và thuyết khoa học vạn năng đã mở đường cho chủ nghĩa chứng thực mới, triết học phân tích, thuyết cấu trúcchủ nghĩa tự nhiên. Chủ nghĩa chứng thực mới và triết học phân tích đã loại bỏ thuyết siêu hình và chủ nghĩa duy lý cổ điển để hướng về chủ nghĩa kinh nghiệm chặt chẽ và thuyết duy danh nhận thức luận. Những người nổi bật như Bertrand Russell phủ nhận mạnh mẽ đức tin vào Chúa Trời. Trong tác phẩm thời kỳ đầu của mình, Ludwig Wittgenstein đã cố gắng tách riêng ngôn ngữ siêu hình và siêu nhiên ra khỏi nghị luận duy lý. A. J. Ayer dùng lập trường gắn bó với khoa học thực nghiệm để khẳng định tính bất khả kiểm chứng và vô nghĩa của các phát biểu tôn giáo. Trong mối liên quan đó, thuyết cấu trúc ứng dụng của Lévi-Strauss dẫn nguồn gốc của ngôn ngữ tôn giáo về tiềm thức của con người khi phủ nhận ý nghĩa siêu việt của ngôn ngữ đó. J. N. FindlayJ. J. C. Smart lập luận rằng sự tồn tại của Chúa Trời về logic là không cần thiết. Các nhà tự nhiên học và nhất nguyên duy vật như John Dewey coi thế giới tự nhiên là cơ sở của mọi thứ, họ phủ nhận sự tồn tại của Chúa Trời hay sự bất tử. Thế kỷ 20 còn chứng kiến sự lớn mạnh về chính trị của chủ nghĩa vô thần, được khích lệ bởi diễn giải về các tác phẩm của MarxEngels. Sau Cách mạng tháng Mười ở Nga năm 1917, tự do tôn giáo cho các tôn giáo nhỏ đã tồn tại được vài năm, trước khi các chính sách của Stalin chuyển sang hướng kiềm chế tôn giáo. Liên Xô và các quốc gia cộng sản khác chủ động truyền bá chủ nghĩa vô thần và phản đối tôn giáo, thường bằng các biện pháp bạo lực.

Do đó, trong ý thức về quan điểm con được trang bị trong môi trường giáo dục là quan điểm về thế giới là khoa học, là không có thần linh ngự trị.

Tuy nhiên, với bản thân con, từ nhỏ con lại được học chung với một người bạn thân của con từ năm lớp 8, bạn ấy lại sinh ra trong một gia đình có đạo gốc ở giáo xứ Kỳ Châu, Kỳ Anh. Chúng con học với nhau rất thân, trường học lại gần nhà con nên bạn ấy hay lên nhà ở lại để cùng học, từ đó hai gia đình rất thân thiết với nhau. Con cũng hay về nhà bạn ấy chơi, những lần về nhà bạn ấy thấy trong nhà thờ Thiên Chúa, thờ Đức Mẹ và các Thánh, con đã rất tò mò, quan sát, để ý và tìm hiểu những điều cơ bản về Đạo Công Giáo. Hình ảnh về Đạo Công giáo trong là hình ảnh tượng Đức Mẹ có vầng hào quang trên đầu với một khuôn mặt rất nhân từ, bao dung, hiền dịu. Đó là ấn tượng, hình ảnh đẹp của con về đạo Thiên Chúa.

Con đã gặp và yêu người yêu con hiện tại, khi tìm hiểu con đã biết bạn con là người theo đạo Thiên Chúa. Tuy nhiên, với những ấn tượng tốt đẹp của con về đạo Thiên Chúa, con không thấy bất kỳ một rào cản nào trong vấn đề này. Khi về gặp gia đình bạn con, con thực sự quý trọng cả gia đình bạn con, đặc biệt là bố của bạn con. Bố của bạn con là một người rất ngoan đạo, sống rất đường hoàng, và là một người rất rõ ràng nghiêm khắc nhưng cũng rất hiền hậu nhân từ. Sau thời gian tìm hiểu, con và bạn con đã thực sự yêu thương nhau và thực sự muốn được nên vợ nên chồng với  nhau. Trên cơ sở đó, bọn con đã xin để tham dự lớp giáo lý dự tòng và giáo lý hôn nhân.

Khi tham gia lớp học với Cha, con đã vỡ ra rất nhiều điều về vấn đề nhận thức khoa học, về phương pháp tư duy về các thông tin khoa học mà cha đã cung cấp. Những bài học đầu tiên mang tính gợi mở, cha hoàn toàn không áp đặt niềm tin, không áp đặt tư duy và là những dẫn chứng những cách phân tích, cách đặt vấn đề hoàn toàn khoa học, lôgic đã dẫn dắt cho con một cách nhìn theo đúng bản chất của vấn đề. Trên cơ sở gợi mở đó của Cha, con đã tìm  hiểu về Đạo Thiên Chúa.

Con đi tìm hiểu về Công Giáo về Thiên Chúa một cách nghiêm túc, lắng nghe và chiêm nghiệm. Những kiến thức con được học, như về học thuyết Darwin nói sự sống bắt nguồn từ một cái hồ và ở đó có nhiệt độ, có khí amoniac và hơi nước nhưng các hồ đó ở đâu thì con người không biết được; những bằng chứng về học thuyết Darwin hiện nay đã chứng minh học thuyết Darwin được giảng dạy trong ghế nhà trường hoàn toàn bị cắt xén, không nói hết các vấn đề mà học thuyết Darwin cũng đang không thể lý giải được. Những bí ẩn mà khoa học hiện nay chưa thể lý giải được, vật lý khám phá ra lực vạn vật hấp dẫn như thế nào nhưng tại sao lại có điều ấy thì lại không lý giải được. Cấu tạo hoàn hảo của cơ thể con người với những bí ẩn sự vận hành mà hiện nay các ngành khoa học đều không thể lý giải được như chúng ta mỗi ngày trái tim chúng ta luôn đập cả trong khi ngủ, tại sao bàn tay có 5 ngón tay, bàn chân có 5 ngón, tại sao chúng ta lại có hai con mắt, 01 cái miệng, 01 cái đầu..? Và các trang thiết bị chúng ta đang dùng chỉ là sự mô phỏng lại sự kỳ vĩ đó của thiên nhiên. Như máy bay, tàu ngầm…Đứng trước sự kỳ vĩ của thiên nhiên đó con đặt ra câu hỏi tất cả những điều đó từ đâu đến và tại sao lại có những điều đó? Theo những người vô thần thì thế giới bắt đầu từ một hạt vật chất sau quá trình vận động hàng tỉ triệu năm hình thành nên thế giới hiện tại, và con người cũng là sản phẩm của sự tiến hóa đó.

Còn đối với những người Kito hữu thế giới được Thiên Chúa tạo dựng và con người là một hình tượng giống với Chúa, được chúa ban cho những điều Chúa tạo thành. Như vậy hai tư tưởng này trái ngược nhau. Một bên là quá trình của sự phát triển từ 1 điểm, quá trình tự biến đổi và hình thành nên sự vật hiện tượng, cuộc sống hôm nay. Còn một bên là được Thiên Chúa ban tặng và tạo dựng nên cuộc sống hôm nay.

Như vậy con  phải lựa chọn lòng tin cho chính mình. Tin một bên vào sự phát triển từ những thứ đơn giản nhất đến thế giới hôm nay hoặc là tin vào Chúa là người tạo ra thế giới.

Con đã nhận thức rằng, để có một niềm tin, đặc biệt là một niềm tin về một vấn đề hoàn toàn mới mẻ không dễ. Để có được niềm tin theo con cần có các yếu tố sau: Thứ nhất: Trên cơ sở những sự kiện có thật xẩy ra, con người có thể biết được những sự kiện ấy, đây là cơ sở đầu tiên để có niềm tin. Thứ hai: Trên cơ sở những chứng tích lịch sử, ghi chép lịch sử, tài liệu lịch sử để con người có thể có niềm tin. Thứ ba: Những chứng cứ do chính con người, sự kiện đó để lại tạo cơ sở cho niềm tin. Thứ tư: Tầm ảnh hưởng, uy tín, sự tác động của con người điển hình, sự kiện điển hình, có giá trị bao phủ được nhiều người thừa nhận tạo cơ sở cho niềm tin đối với người khác. Thứ năm: Sự xác tín của những nhân chứng có uy tín, có sự tôn trọng khách quan, cũng như sự cam kết bảo vệ sự thật mà những nhân chứng ấy sẵn sàng tuyên thệ, sẵn sàng chết để chứng minh cho sự thật ấy là cơ sở quan trọng để tạo  niềm tin. Thứ sáu: Những con người, sự kiện ấy tạo được niềm tin, sự khẳng định của những người thừa kế, của những người hậu duệ có uy tín, có sự ảnh hưởng rộng lớn cũng là cơ sở để tạo niềm tin. Thứ bảy: Những con người, sự kiện ấy tạo được niềm tin nơi cộng đồng, người thân ruột thịt của mình, người có được niềm tin của bản thân mình cũng là cơ sở để tạo niềm tin. Thứ tám: Những con người, sự kiện tạo được niềm tin nơi số đông nhiều người cũng là cơ sở để tạo niềm tin cho người khác. Thứ chín: con người, sự kiện để lại những chứng cứ có sự tin cậy, loogic, chặt chẽ cũng là cơ sở để tạo niềm tin. Thứ mười: sự công khai minh bạch, trung thực của thông tin về sự kiện, con người cũng là cơ sở để tạo niềm tin. Thứ mười một: sự kiểm chứng các thông tin, sự phản biện cũng là cơ sở để tạo niềm tin. Thứ mười hai: sự khách quan, không vụ lợi khi đưa các thông tin cũng là cơ sở để tạo niềm tin.

Con đã tìm hiểu về Thiên Chúa với một loạt các cơ sở của niềm tin được đặt ra để tìm hiểu về Thiên Chúa như vậy.

Cha đã gợi mở cho con về cách đặt vấn đề: chúng ta hỏi bố mẹ, ông bà là: Cố nội chúng ta như thế nào? Và làm sao chúng ta đón nhận những điều đó. Tại sao chúng ta lại tin vào những điều đó do mỗi người quá tin tưởng vào người nói hay quá tin tưởng vào các điều được viết trong sách vở và lịch sử. Như vậy chúng ta phải làm rõ điều đó trên cơ sở khách quan và đầy đủ.  Thật vậy khi tin vào một điều gì đó chúng ta phải có lý chứng. Vậy khi có một người hỏi tại sao bạn lại tin vào Bà Triệu, Bà Trưng là đó chính là lịch sử đã ghi lại cho chúng ta. “Hai Bà Trưng; mất ngày mùng 6 tháng 2 năm Quý Mão 43 là tên gọi chung của Trưng Trắc và Trưng Nhị, hai chị em là anh hùng dân tộc của người Việt. Như vậy đây là một nhân vật có thật trong lịch sử, đã ảnh hưởng lên cuộc sống của nhân dân Việt Nam. Như vậy đó là những chứng cứ có thể làm cho chúng ta tin vào Hai Bà Trưng.

Con đặt niềm tin vào Thiên Chúa đầu tiên là qua yếu tố lịch sử. Qua lịch sử của thế giới con nhận thấy một điều đó là xuyên suốt lịch sử Kito giáo đó chính là Chúa Giesu. Người là đấng Mesia, là Đấng Cứu Thế mà Thiên Chúa ban tặng cho nhân loại. Người chịu những khổ đau, chết trên cây thánh giá để cứu chuộc nhân loại. Chúa Giesu là một nhân vật xuyên suốt hai cuốn sách đi suốt lịch sử đó chính là Kinh Thánh (gồm Tân Ước và Cựu Ước). Người được sinh năm 0, mà con người lấy đó làm mốc cho thời gian trước và sau công nguyên. Người được sinh bởi bà Maria, sau khi Chúa Thánh Thần tiên báo rằng bà sẽ mang thai một đấng cứu độ loài người và đặt tên là Giesu. Người có quê quán tại thành Na-da-ret, miền Ga li lê dưới thời vua Au gút to. Sự hiện diện của người được chuẩn bị trước cả 2000 năm lịch sử và Chúa chuẩn bị cho cuộc hành trình của người bằng ngôn sứ Gioan Tẩy Giả. Người sinh ra trước Chúa Giesu 6 tháng để chuẩn bị cho sự có mặt của người. Như vậy Chúa Giesu là một người có tầm ảnh hưởng cực lớn, có vị thế sáng chói trên dòng lịch sử nhân loại. Người là hình mẫu cho các Kito hữu và là hiện thân cho tình yêu, tình thương.

 

(còn nữa)

Bùi Anh Thắng

Bình luận