Có lẽ chưa bao giờ nhân loại trải qua một giai đoạn khủng hoảng về sự thật, khủng hoảng về lương tri có tầm mức sâu rộng toàn cầu, với những hậu quả khinh khủng như xã hội hậu hiện đại của chúng ta hôm nay.
Thực trạng của khủng hoảng sự thật là gì?
Nhưng ta thử tìm xem sự thật hôm nay là gì? Và sau khi chối bỏ sự thật, thì người ta sẽ bám víu vào cái gì? Ngày nay, người ta thường gọi sự thật là những gì mà mỗi người xem là đúng, người ta gọi luân lý là những gì mỗi người làm mà không xấu hổ. Và sự thật thường chỉ do một số người nào đó sở đắc mà thôi[1]. Bi đát hơn nữa là con người ngày nay thường nhân danh sự thật, lạm dụng sự thật, dùng sai sự thật để khẳng định mình đã sở đắc sự thật và sống cho sự thật. Thậm tệ hơn là người ta đã nhân danh những gì mà họ cho là sự thật để chà đạp sự thật và giết chết sự thật. Với những khẩu hiệu tuyên truyền hoa mĩ, nào là kế hoạch hoá gia đình, nào là điều hoà sinh sản, giúp chết êm dịu…người ta đang nhân danh cái mà người ta gọi là quyền tự do, để huỷ diệt những mạng người vô tội, không có khả năng đề kháng, để chà đạp thô bạo lên nhân phẩm, lên thân xác của người phụ nữ và gieo rắc một nền văn minh của sự chết, theo như cách diễn tả thông thường của Đức Cố Giáo hoàng Gioan-Phao lô đệ nhị. Như vậy, sau khi đã chối bỏ sự thật, không chấp nhận sự thật giết người là tội ác, người ta chắc chắn phải tìm một điều gì đó có vẻ giống với sự thật, như tình trạng của vụ việc, sức mạnh, tính thời sự, chất liệu, chính trị, quyền tự do…Vì thế, mọi cuộc khủng hoảng về sự thật ngay sau đó liền dẫn tới một sự phát triển về quyền lực, một sự tôn thờ một sức mạnh hay sự kiện nào đó và vì thế : “Trong thế giới chúng ta, vào cuối thiên niên kỷ thứ hai, lý tưởng mà chúng ta làm ra vẻ có lí, làm ra vẻ lợn cợn, trong khi chiến thắng của sức mạnh lại gia tăng. Và trong bầu khí này, càng ngày càng khó chấp nhận một sự thật bất biến, vĩnh cửu và thiết yếu”.[2] Chính triết gia Jean Guitton đã ghi nhận lại kinh nghiệm ông đã từng gặp khi ông còn là giáo sư tại đại học Sorbonne về trường hợp một sinh viên, sau khi đã trình bày xong đề tài của mình, được ông đặt câu hỏi : “Anh có tin rằng những gì anh trình bày và đề nghị là sự thật không?” Và sinh viên ấy đã bị sốc vì câu hỏi đó. Vì chính anh cũng không tin chắc những gì anh nghiên cứu trình bày là sự thật.
Những biểu hiện tỏ tường về cuộc khủng hoảng sự thật đó là sự méo mó về tính lương thiện của con người thời nay mà cụ thể là thói quen dối trá và lưu manh chuyên nghiệp. Quả thật, có lẽ chưa bao giờ con người lại dễ dàng nói dối và nói dối một cách thoải mái, vô tội vạ, nói dối một cách hệ thống, có bài bản, như con người thời nay. Cứ nhìn những tấm bảng quảng cáo, những nhãn hiệu bên ngoài, những chiến dịch tuyên truyền với những mẫu mã càng ngày càng tinh quái và đối diện với thực tế của những gì người ta quảng bá, tuyên truyền, đọc lại những con số thống kê hối lộ, những tiêu cực bán độ ngay cả trong bóng đá, những vụ tham ô hàng tỷ đồng, những công ty trốn thuế, những công trình xây dựng kém chất lượng, những bằng cấp giả, ngay cả những thuốc giả, bác sĩ giả, thầy tu giả, những giáo sư giả, những vụ tranh giành bản quyền, những chuyện tày đình ngay trong giới tri thức “Tiến sĩ ta ăn cắp của tiến sĩ Tây và tiến sĩ ta ăn cắp của tiến sĩ ta”, ăn cắp mẫu mã, nhãn hiệu, những bản báo cáo láp…trên báo chí, và chỉ cần định tâm một ít, ta sẽ cảm thấy rụng rời, nhứt nhối về sự thật phũ phàng này. Thử hỏi còn ai dám tin vào sự thật và còn đâu là sự thật nữa. Khi nơi con người vắng bóng sự thật thì còn đâu mảnh đất nguyên tuyền để lòng tin có thể bám rễ?
Vậy, nguyên nhân của những khủng hoảng này đến từ đâu?
Trước hết, chúng ta phải nhìn nhận rằng những thành công của khoa học đã mang đến cho nhân loại một ấn tượng, một cảm giác là con người cuối cùng đã sở đắc được sự thật. Và trong thực tế, không ít người thời nay đã mộ mến, sùng bái, thần tượng và ngộ nhận khoa học như là một tôn giáo. Nhưng đối diện với thực trạng xã hội xáo trộn, bất an, với bao vấn nạn nhân loại đang phải đối mặt, với những thành công và hệ luỵ bất toàn do khoa học mang lại, cùng với những bế tắc không có lời giải, càng ngày người ta càng khám phá ra sự bất túc của khoa học, và cuộc khủng hoảng sự thật ẩn tàng ngay trong chính lãnh vực khoa học. Người ta bắt đầu nhận chân ra một sự thật là khoa học chỉ sở đắc được một số chân lý nào đó nhưng không phải là sở đắc tất cả sự thật.
Thứ đến, trên bình diện chính trị, tư tưởng, một thế hệ người, với 20-30 năm ngồi ghế nhà trường, hay sống trong một chế độ chính trị nào đó, cũng đủ để những hệ thống tư tưởng, chủ thuyết, những hệ thống tuyên truyền, quảng bá của những thể chế chính trị nhồi sọ, tẩy não những con người đơn sơ khỏi những gì họ đã xác tín, đã đón nhận. Đặc biệt, chúng ta không thể không nói tới ba nhân vật, được mệnh danh là ba bậc thầy của nghi ngờ, đó là S. Freurd, K. Marx và Nietjsche với những học thuyết hệ thống, được nhiều người đón nhận. Vào thời chiến tranh lạnh, những cuộc tẩy não quy mô, mang tính chiến lược của những chính quyền tại các quốc gia cộng sản, dành cho những người bất đồng chứng kiến, những vị lãnh đạo các tôn giáo, những đối thủ của họ, là những chứng tích mà lịch sử không có quyền xoá nhoà được. Có lẽ tội ác lớn nhất mà nhiều chủ thuyết hiện đại đã gây ra cho toàn thể nhân loại và cũng là thành công lớn nhất mà họ đã gặt hái được trong thời gian qua là đã gieo rắc nghi ngờ cho con người hiện đại và tạo ra được những thế hệ người luôn sống trong những tâm trạng nghi ngờ, đố kỵ. Ấy là chưa kể đến những thủ đoạn mánh mung, lọc lừa, dối trá nham hiểm trên chính trường quốc tế của các chính trị gia. Chính vì vậy mà người trẻ hôm nay không còn dám tin vào sự thật và dường như cũng không đủ sức để đối diện với sự thật nữa.
Sau cùng, như đã nói ở trên, tiến trình toàn cầu hoá đã sản sinh ra tình trạng anomie, tình trạng phi chuẩn mực, phi văn hoá, phi ý thức hệ; hay nói khác đi là tình trạng tràn ngập văn hoá, tràn ngập thông tin, tràn ngập ý thức hệ, do hệ thống thông tin toàn cầu mang lại, đã góp phần không nhỏ trong việc tạo nên cuộc khủng hoảng này. Bên cạnh nó có sự đóng góp không nhỏ của cuộc khủng hoảng lòng tin trong các tôn giáo và những bất toàn khiếm khuyết, lối sống sa đọa, vô luân, ù lì, bảo thủ, cố chấp do chính các cơ chế, những hành động mà các vị lãnh đạo tôn giáo gây ra. Những cơn khủng hoảng này đã lan tràn khắp mọi lãnh vực, ngay cả trong lãnh vực tu trì, khiến cho việc đào tạo con người thời nay, ngay cả việc đào tạo những nhà sư phạm, những người sống đời thánh hiến; những người dấn thân cho sự thật, cũng khó vô cùng.
(Còn tiếp)
Gioan Lưu Ngọc Quỳnh, CSsR
Truyền thông sinh viên Công giáo