Tháng 10, tháng Cách mạng Nga, xin mời quý độc giả đọc lại một trang sử đau buồn của Kitô giáo dưới chế độ cộng sản qua bài viết của tác giả Bernard Lecomte.
Nước Nga, tháng 10 năm 1917. Với cuộc cách mạng bôn-sê-vich, nước Nga mở đầu một cuộc bách hại tín hữu Kitô chưa từng có trong lịch sử… Ký giả, nhà văn Bernard Lecomte kể câu chuyện ít được biết đến này.
“Nước Nga tự do chiến thắng! Vinh danh các người giải phóng! Với các nạn nhân của Cuộc Cách mạng, ghi nhớ mãi mãi!” Vào tháng 3 năm 1917, khi nga hoàng Nicolas II vừa thoái vị, một chính quyền tạm thời vừa được thành lập ở Petrograd, tạp chí nhỏ Slovo Istiny không giấu được niềm vui. Tờ tạp chí định kỳ dày 16 trang này là cơ quan liên lạc của người công giáo ở Nga. Họ thuộc các giáo phái latin (Ba Lan, Đức) hay byzantin (Biéloruss, Ukraina), vài triệu người công giáo sống trong tình trạng cực kỳ khốn cùng trong đế chế độc tài dựa trên đại đa số tín hữu chính thống, theo chủ nghĩa quốc gia và hoàn toàn tuân phục Nga hoàng trong toàn cõi nước Nga.
Sự sụp đổ của chế độ nga hoàng có chấm dứt sự bách hại, sỉ nhục, cấm đoán của vài triệu người công giáo này không? Đó là ván bài của Đức Bênêđictô XV, qua Hồng y Quốc vụ khanh Gasparri, ngài bày tỏ “sự ngưỡng mộ và hân hoan” cho cuộc cách mạng “có ít nạn nhân”! Vatican không bao giờ bỏ ước mong đem đất nước tuyệt vời này về nôi công giáo mà sau khi đế quốc Constantinople (1453) sụp đổ đã có quyết định đau buồn, muốn Maxcơva là Rôma Thứ Ba. Muốn đem nước Nga về với Giáo hội là một hoang tưởng có từ nhiều thế kỷ nay. Có phải tình cờ mà mùa hè năm 1917, ba trẻ mục đồng Bồ Đào Nha nghe Đức Mẹ xin “dâng nước Nga cho Trái tim Vô nhiễm Mẹ Maria đó không?”
Các hy vọng hảo huyền này chỉ tạm thời Khi Lênin, Trốtky và các người bôn-sê-vích lên nắm chính quyền tháng 10 năm 1917, họ chấm dứt mọi hy vọng dân chủ, giải tán Hiến chế và trong một tự sắc công bố ngày 23 tháng 1 năm 1918, họ hạn chế nghiêm nhặt mọi tự do tôn giáo. Có phải họ tuyên bố như vậy sau khi nghe Karl Marx cho rằng tôn giáo là thuốc phiện của dân chúng không? Và có phải hàng giáo sĩ chính thống không phải là đồng minh chính của giai cấp trưởng giả trong cuộc đấu tranh giai cấp không nương tay đó sao?
Đương nhiên các nạn nhân đầu tiên của đường lối chính trị này là cấp lãnh đạo Giáo hội chính thống. Đám đông tín hữu Nga đã không có nhiều thương cảm cho các nhà lãnh đạo của Tòa thượng phụ Maxcơva vì họ quá liên hệ với nga hoàng, cũng như không thương cảm hàng giáo sĩ mà họ cho là quá tham nhũng. Khi hàng triệu người dũng cảm này nhận ra Giáo hội chính thống đang bị khó khăn thì đã quá trễ. Ngày 23 tháng 2 năm 1922, một cách không nương tay, Lênin đã ký tự sắc tịch thu toàn bộ tài sản của các nhà thờ, các tu viện. Ngày 15 tháng 3, qua bức thư viết cho ông Molotov phụ tá của mình, Lênin ra lệnh “bắn các đại diện giới trưởng giả và hàng giáo sĩ nhiều nhất có thể” để diệt “mọi mưu toan chống đối trong nhiều thập niên sắp tới”!
Các tín hữu trong tầm ngắm
Và thế là tân chế độ tuyệt đối vô thần ra đời. Sứ thần Tòa Thánh Ba Lan-Lituania Achille Ratti (giáo hoàng Piô XI tương lai), sứ thần Tòa Thánh Đức Eugenio Pacelli (giáo hoàng Piô XII tương lai) đã thấy rõ điều này, cả hai là nhân chứng hàng đầu của chế độ khắc nghiệt khủng khiếp này. Tháng 9 năm 1918, Đức ông Ratti xin được chính thức đi thăm người công giáo ở Nga và đã bị từ chối dứt khoát. Vài tháng sau, ở Munich, nhà riêng của Sứ thần Tòa Thánh Pacelli bị những người bôn-sê-vích địa phương xâm nhập, ngài thoát được sự trừng phạt của họ. Những kỷ niệm đau buồn còn tác động đến về sau…
Nhà thờ bị phá hủy, tu viện bị đốt, thánh tích bị chà đạp, sự loại bỏ tận căn tôn giáo được Tcheka, tân đường lối công an trị hành động một cách có hệ thống. Cũng như các đồng hữu chính thống, các giám mục công giáo cũng bị bắt, bị đưa ra tòa, bị trục xuất (Đức ông Cieplak), bị trục xuất và hành quyết (Đức ông Boudkievitch). Cái chết của Lênin năm 1924 không chấm dứt cuộc chém giết rùng rợn này, trái lại là đàng khác. Cuộc chiến dành quyền lực mà Stalin thắng đã tăng cường thêm các vụ bức bách.
Trong bảo mật tuyệt đối, năm 1925 Đức Piô XI gởi linh mục Dòng Tên Michel d’Herbigny qua Nga với một sứ mệnh không bình thường: tái tạo hàng ngũ công giáo chui ở Nga!
Năm 1925, Đức Lêô XI có một quyết định vô tiền khoáng hậu. Trong bảo mật tuyệt đối, năm 1925 Đức Piô XI gởi linh mục Dòng Tên Michel d’Herbigny qua Nga với một sứ mệnh không bình thường: tái tạo hàng ngũ công giáo chui ở Nga! D’Herbigny thăm Kharkiv, Kiev, Moguilev, Vitebsk, Leningrad, nơi cha tuyển chọn các giám mục ngang nhiên trước mặt mật vụ, nhưng cha đột ngột bị trục xuất vào tháng 9. Thất vọng bi thảm: giữa năm 1927 và năm 1937, tất cả các mục tử chui và dũng cảm – họ là Ilguine, Sloskans, Frison, Maletski, Fedorov lần lượt bị bắt, bị trục xuất, bị bắn hoặc bị gởi đi đến các trại lao động khổ sai.
Tháng 2 năm 1937, khi Đức ông Neveu, một trong những người thoát được thảm kịch này, đến kể sự việc cho Đức Piô XI nghe, ngài đã không cầm được nước mắt. Chắc chắn ngài đã nghĩ đến các nạn nhân khốn khổ này khi ngày 19 tháng 3 năm 1937, ngài công bố Thông điệp Thiên Chúa Cứu chuộc (Divini redemptoris) dài 126 lên án cộng sản vô thần. Cũng trong tháng này, ngài cũng gởi một thông điệp đến người Đức lên án chế độ nazi. Đó là hai giáo huấn chính trị khủng khiếp nhất của thời hiện đại.
Cái chết và sự sống lại của Giáo hội Nga
Năm 1936, trong các “vụ án đầu tiên của Maxcơva”, sự việc này được lan rộng: “đảng cộng sản” dứt khoát loại bỏ tôn giáo! Dĩ nhiên, dù dưới chế độ kinh hoàng của Stalin, đức tin vẫn được kín đáo truyền trong các gia đình chính thống giáo. Chính Mikhael Gorbatchev cho biết, thời đó ông được bà ngoại rửa tội chui trước tượng Đức Mẹ, tượng được che lại bằng chân dung Lênin để che mắt cảnh sát! Nhưng phải chấp nhận một sự thật: trước chiến tranh, kitô giáo đã hoàn toàn biến mất trong tất cả đời sống tập thể của Liên bang Xô viết.
Lả người đi trong vòng mười ngày, cuối cùng ngày 3 tháng 7, Stalin long trọng ngỏ lời trước dân chúng, bắt đầu bằng những chữ: “Anh chị em!…”
Ngày 22 tháng 6 năm 1941, gió thổi quay chiều, khi xe tăng của quân đội Hitler xâm chiếm Liên bang Xô viết. Đứng trước sự tấn công bất ngờ này, Stalin hoảng hốt: có phải hai năm trước đây ông đã ký với Hitler hiệp ước không-tấn công đó sao? Nhưng Hitler không ngần ngại vi phạm cam kết: chương trình Barbarossa đã được đưa ra, quân đội của ông tiến về Maxcơva! Lả người đi trong vòng mười ngày, cuối cùng ngày 3 tháng 7, Stalin long trọng ngỏ lời trước dân chúng, bắt đầu bằng những chữ: “Anh chị em!…” Quên đi chữ “Các đồng chí”! Công thức tôn giáo vang lại lời kêu gọi của thượng phụ Serge, người mà buổi chiều khi quân nazi tấn công, đã lên tiếng kêu gọi người chính thống Nga “đứng lên bảo vệ biên giới thiêng liêng của tổ quốc”. Không có sự hy sinh của hàng triệu tín hữu yêu nước hết lòng này thì Liên Xô có chiến thắng được chiến tranh với cái giá của hy sinh vô bờ này không?
Ngày 4 tháng 9 năm 1943, một vài tháng sau chiến thắng Stalingrad, Stalin tiếp ba chức sắc cao cấp của Tòa Thượng phụ Maxcơva, ông cho phép họ bầu ra một tân thượng phụ (chức vụ bị trống từ năm 1924) và được phép mở hàng ngàn nhà thờ bị đóng cửa từ những năm 1930. Có đi có lại, có đi có lại. Giáo hội chính thống Nga và Đảng cộng sản Liên Xô quyết định cùng sống chung với nhau.. dĩ nhiên với điều kiện, hoạt động của Giáo hội không bao giờ làm cản trở cho uy quyền của Đảng…
Sự tuần phục Kremlin của Giáo hội Chính thống thường bị chỉ trích, nhất là các cộng đoàn chính thống lưu vong ở Mỹ và Pháp. Bởi vì ở Liên Xô, không có chuyện một giám mục, được xem như giáo hoàng của làng, được phép tổ chức bất cứ một buổi lễ nhỏ nào, giảng bài giảng nào, in tờ sinh hoạt nội bộ nào, hay họp ca đoàn mà không có sự đồng ý của KGB địa phương!
Dưới thời của chủ tịch Nikita Khrouchtchev vui tính, nhân vật chính trong vụ bài-stalin, người ta đã không thấy hàng ngàn ngôi nhà thờ đã bị đóng cửa một cách độc đoán đó sao?
Sau cái chết của Stalin, các tín hữu của vùng đất mênh mông này phải quen với thái độ tùy tiện lúc này lúc kia, thay đổi ý kiến xoành xoạch của những người cầm đầu đảng, họ luôn chủ trương một chế độ vô thần khắc nghiệt. Dưới thời của chủ tịch Nikita Khrouchtchev vui tính, nhân vật chính trong việc bài-stalin, người ta đã không thấy hàng ngàn ngôi nhà thờ đã bị đóng cửa một cách độc đoán đó sao? Trong những năm 1960, du khách đến thăm Leningrad đã sửng sốt khi thấy ngôi nhà thờ chính tòa danh tiếng Kazan vào cuối thời Nevski đã trở thành viện bảo tàng bài tôn giáo lớn nhất thế giới!
Phương Tây ít biết đến con đường núi sọ của tín hữu chính thống Nga. Vì trước hết, cho đến những năm 1970, Liên Xô vẫn là nước khép kín. Kế đó vì Tòa Thượng phụ Maxcơva phải trả cái giá cho sự được công nhận chính thức của họ, các nhà lãnh đạo chính thống được quyền ra khỏi nước, đến các nước tư bản ca ngợi Chúa và Politburo. Người ta chỉ biết thực trạng tôn giáo Liên Xô dưới thời Leonid Brejnev khi các nhà ly khai – các nhà chống đối hàng đầu như Andrẹ Sakharov và Alexandre Soljenitsyne – được biết đến ở Phương Tây.
Nếu Sakharrov là nhà khoa học vô thần thì Soljenitsyne là nhà văn có đức tin sâu đậm. Nét đa dạng này làm cho các quan sát viên khó hiểu. Vì thành phần ly khai kitô hữu đa số là người chính thống, họ là Igor Ogurtsov, Gleb Iakounine, Alexandre Ogorodnikov… họ làm cho tiếng nói của họ được biết đến qua các bài viết được một vài báo như tuần báo Tư tưởng Nga mà trụ sở đặt tại Paris, do bà Irina Alberti điều hành, bà Alberti sau này là bạn thân của Đức Gioan-Phaolô II.
Đón xem phần tiếp theo: Vatican với đường lối của Cộng sản
Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch