Hàng năm, cứ đến những ngày đầu tháng 11, khi tiết trời vào thu, hàng cây thay lá, Giáo hội lại nhắc chúng ta nhớ đến cùng đích đời đời của mỗi người là Nước Trời. Giáo hội đặc biệt dành riêng tháng 11 để dạy mỗi người Ki-to hữu bày tỏ lòng thảo hiếu biết ơn ông bà tổ tiên, đồng thời nhắc các tín hữu chuẩn bị cho ngày cuối cùng của cuộc đời mình. Ý thức bổn phận trách nhiệm của mình đối với các đấng bậc đã ra đi trước; tối thứ 7 ngày 2/11, hiệp cùng với Giáo Hội, các thành viên Nhà Tĩnh Tâm Giê-ra-đô đã quy tu đông đủ tại ngôi đền thân thương quen thuộc để cùng Cha linh hướng Gio-an dâng Thánh lễ cầu nguyện đặc biệt cho các đẳng linh hồn.
Đầu bài giảng, Cha gio-an đã chia sẻ với đoàn con cái về chuyến mục vụ của Ngài tại nghĩa trang Thanh Tước.
Khi đứng giữa nghĩa trang, một bên thấy toàn phần mộ của các tướng tá quan chức, còn phần mộ các cha các linh mục tu sĩ và một số soer thì nằm ở bên trái cổng nghĩa trang. Tạ ơn Chúa bởi lòng tin của người tín hữu vào sự sống bất diệt được diễn tả một cách rất cụ thể, rõ ràng. Hình ảnh một cộng đoàn tín hữu dâng thánh lễ giữa nghĩa trang mà phần đông là tướng tá quan chức của người lương dân. Một bên người ta nhìn cái chết là hết thì không khí nó vắng lặng, ảm đạm. Còn một bên nhóm Người Ki-tô hữu đã làm dậy lên một niềm tin vào sự sống thật. Tuy nhiên, chúng ta cũng biết rằng họ nói họ không tin nhưng qua việc họ chấp nhận mua những phần đất mặt tiền rất đắt để an táng thân nhân, làm những ngôi mộ rất đẹp cho thấy không phải họ không tin nhưng cái họ tin nó khác hẳn với niềm tin của người Ki-tô hữu.
Đến nghĩa trang chúng ta thấy được thân phận bọt bèo của phận người, vất vả ngược xuôi, sống làm quần quật từ sáng đến tối rồi chết đi chỉ là một nấm mồ, kết thúc thật bi đát. Đối với một người không tin vào cuộc sống bất diệt, số phận con người thật đáng thương, thật vất vả, thật bi đát. Chúng ta thấy rằng: công nghiệp càng phát triển, chủ nghĩa vô thần càng lên ngôi thì số người tự tử ngày càng nhiều, nhất là ở các nước phát triển. Bởi vì khi họ phấn đấu hết sức và đã có tất cả tiền bạc mọi thứ, họ thấy chẳng có gì hạnh phúc nữa. Cuối cùng chết cũng phải vất bỏ tất cả, vất bỏ cả cuộc đời ngược xuôi chỉ để được 3 thước đất. Quả thật, cuộc sống thật bi đát đối với những người không có niềm tin.
Thiên Chúa là một Thiên Chúa tỏ mình
Trong bài đọc 1, qua câu chuyện của ông Gióp, chúng ta thấy ông là một con người thật sự giàu sang, thật sự hạnh phúc. Ông có đầy đủ mọi thứ, gia tài gia súc,…. Nhưng khi Sa-tan đòi thanh luyện thì trong chốc lát ông mất sạch chả còn gì nữa. Thân mình thì lỡ loét ngồi trên tro bụi, vợ thì nhạo báng, người ta đến vênh váo về chuyện ông chẳng công chính gì “nhìn mặt ông có vẻ đạo đức nhưng ông chả công chính gì đâu, giờ thì rõ ràng bày ra trước mắt, ông đã mất sạch”. Nhưng trong đau khổ, trong khủng hoảng ông đã thấy được Thiên Chúa là ai.
Thực ra, con người chỉ đang sống vì tiền bạc, bám vào của cải, bám vào con cái, dẫu rằng vẫn tin vào Thiên Chúa nhưng Ngài là một bóng mờ, một khái niệm của họ. Còn khi để cho Thiên Chúa tước bỏ đi tất cả không còn gì để bám víu, không còn gì để tựa nương nữa thì khi đó Gióp mới nói: “Sau khi da tôi đây bị tiêu huỷ, thì với tấm thân, tôi sẽ được nhìn ngắm Thiên Chúa. Chính tôi sẽ được ngắm nhìn Người, Đấng mắt tôi nhìn thấy không phải người xa lạ” Thiên Chúa là vậy. Một Thiên Chúa ẩn mình mà cũng là một Thiên Chúa tỏ mình. Một Thiên Chúa ẩn mình là vì người ta không tin, người ta tin vào tiền bạc của cải, mọi thứ, người ta bám víu và dựa vào đó. Và khi mà người ta bị tước đoạt hết, không còn một cái gì nữa, không còn vợ, không còn con, không còn bạn hữu, không còn sự sống …Khi đó mới thấy được Thiên Chúa là một người lạ như hằng ngày mình ẫn thấy, một Thiên Chúa xa lạ từ những vách nát của tiền bạc của những mối quan hệ nơi con người bình thường, nó che đi một Thiên Chúa bất diệt vẫn ở với mình. Có nhiều người cứ bám víu vào tiền bạc, bám víu vào vật chất nên họ không thấy được Thiên Chúa là đấng hiện thân đang ở với mình. Chỉ có những con người khi bị tước đoạt tất cả , không còn gì để bám víu và sống mối phúc nghèo khó thì họ mới thấy của cải, vật chất, con cháu,… chẳng có ai đi với mình một chặng đường đến với Thiên Chúa khi mình chết. Thân trần trụi từ bụi đất, sinh ra trong lòng đất bước vào thế giới trần trịu thì đi ra cũng trần trụi. Chẳng có gì mang vào trần gian thì cũng chẳng có gì mang đi cả.
Niềm hy vọng sự sống đời đời của chúng ta đặt nơi tình thương của Chúa.
Chúa Giêsu đến Ngài cho chúng ta niềm hy vọng. Thiên Chúa yêu con người khi con người còn là ác nhân, còn là tội nhân. Ngài đã cho Chúa Giê-su đến để chịu chết, để chuộc chúng ta về với Ngài. Chúng ta thấy niềm hy vọng của chúng ta không phải ở nơi công đức của chúng ta mà là nơi tình thương vô biên của Thiên Chúa. Tình thương không ai giải thích nổi. Người ta chỉ thương những người thương mình, quý mình còn Thiên Chúa thương cả kẻ thù của Ngài. Khi chúng ta là kẻ phản bội, là ác nhân của Ngài thì Ngài lại sai chính con một Ngài xuống chịu chết để cho chúng ta được sống. Thiên Chúa thương chúng ta nên lẽ nào Ngài lại bỏ rơi chúng ta, lẽ nào Ngài lại để cho máu của con Ngài đổ ra vô ích. Cho nên phần rỗi đời đời, niềm hy vọng sự sống đời đời của chúng ta đặt nơi tình thương đó. Chúa Cha đã yêu con người đến mức độ thí ban con một của Người thì Ngài còn tiếc gì với chúng ta. Sự sống đời đời của chúng ta là dựa vào tình thương lạ lùng của Chúa.
Tin Nghĩa là đón nhận Ngài, xác tín Ngài ở với mình.
Chính Chúa Giêsu trong bài tin mừng hôm nay đã khẳng định rằng: “Ai tin thì sẽ được sống muôn đời”. Những ai đón nhận Ngài vào trong cuộc đời mình, ai sống như Ngài đã sống, ai chết như Ngài đã chết thì sẽ được sống muôn đời và dầu người đó có chết thì vẫn sống. Như vậy, sống và chết với Thiên Chúa không còn là khái niệm vật lý. Cái chết và sự sống của Thiên Chúa hệ tại ở nơi niềm tin của chúng ta. Ai tin Thầy thì dù chết vẫn sống, còn ai không tin Thầy thì dù sống vẫn chết. Lòng tin là vậy.
Tin Nghĩa là đón nhận Ngài, xác tín Ngài ở với mình. Các đáng bậc của chúng ta dù đã chết theo nghĩa vậy lý thể xác nhưng là những người tin các Ngài vẫn đang sống và sống muôn đời. Dẫu mắt chúng ta không thấy được nhưng thế giới của các Ngài vẫn bao phủ lấy chúng ta, thế giới của các Ngài vẫn ôm trùm chúng ta. Và các Ngài không chết bao giờ, có chăng trong thời gian thanh luyện, Thiên Chúa muốn các Ngài tinh tuyền hơn để các Ngài xứng đáng được diện kiến trước Nhan thánh Chúa. Như chúng ta đang ở trong tối, bất ngờ ra ánh sáng lóe không chịu được thì phải mở cửa từ từ để ánh sáng thâm nhập vào. Các đáng bậc của chúng ta cũng vậy là những người tin đang ở trong thế giới của Thiên Chúa và biết rằng ánh sáng chói lòa của Thiên Chúa mình chưa thể tiếp cận được, nên cần khoảng thời gian thanh luyện để đi vào trong thế giới của Thiên Chúa. Và trong thời kỳ thanh luyện đó, Thiên Chúa muốn chúng ta liên lạc với các Ngài. Không chỉ cầu nguyện cho các Ngài, cầu nguyện cùng các Ngài mà là để nhắc cho chúng ta nhớ rằng, các Ngài đã chiến thắng và chúng ta có bổn phận cũng phải đạt được sự chiến thắng như các Ngài. Điều đó mới là điều quan trọng.
Nghĩ về tổ tiên, ông bà, cha mẹ, những người đã ra đi trước chúng ta nhưng họ chẳng xa chúng ta. Bởi vì trong dòng máu của họ từ ông bà để lại cho bố mẹ, bố mẹ để lại cho chúng ta cứ vậy nó chảy nhỏ sự sống của các Ngài, sự sống cứ chảy luân chuyển từ bao đời chuyển giao cho chúng ta. Và chúng ta đang mang lấy sự sống của các Ngài. Cho nên chúng ta ý thức sự hiện diện của các Ngài trong chính con người cuộc đời của chúng ta để đừng phung phí, đừng làm cho những giọt máu của các Ngài trao lại cho chúng ta bị hoen úa, bẩn đục. Trong sự sống của chúng ta có sự sống luân chuyển thường xuyên của các Ngài và không chỉ sự sống của các Ngài mà còn sự sống của Đức Ki-tô ở với chúng ta. Chúng ta ăn thịt và uống máu Chúa Giêsu mỗi ngày. Sự sống của Chúa ở trong con người chúng ta.
Diễn tả lòng tin thành đối với các đấng bậc đã ra đi trước chúng ta.
Khi ý thức được điều đó chúng ta tự khác sẽ biết phải sống như thế nào cho xứng đáng với ông bà tổ tiên, cha mẹ, cho xứng đáng với Thiên Chúa đã nuôi sống mình bằng chính máu của Ngài. Nhớ đến các đẳng là ý thức sự hiện diện của các Ngài trong chính con người mình. Nhớ đến các đẳng là nhớ đến sự hiện diện của Thiên Chúa đầy tràn nơi mình. Ý thức được điều đó chúng ta biết sống đoan trang, biết sống đức hạnh để nhờ đó sự sống đó tiếp tục tỏa lan cho những người xung quanh ngang qua đời sống thánh thiện của chúng ta. Đồng thời, để diễn tả lòng tín thành đối với ông bà, cha mẹ, tổ tiên, không cần chúng ta phải xin lễ nhiều, cái quan trọng là chúng ta bắt chước Thánh Têresa hãy làm những việc bé mọn nhất vì lòng yêu mến để chỉ cho ông bà, cha mẹ, cố can, tổ tiên, những người đã làm nên cuộc đời của chúng ta. Làm tất cả vì lòng yêu mến có khả năng cứu độ được con người, cứu rỗi được những đấng bậc đã qua đời. Thánh Têresa đã khám phá ra con đường cứu độ rất tuyệt vời. Về việc xin lễ, nếu chúng ta xin chỉ vì trách nhiệm, chỉ vì người đời, chỉ vì thói quen tập quán mà lòng yêu mến không có thì của lễ đó chẳng có ý nghĩa gì cả. Cho nên theo gương Thánh Têresa chúng ta dâng tất cả những điều rất bé nhỏ ví như một lời kinh, hay một lời nguyện tắt: Giêsu – Maria – Giuse Con mến yêu xin cứu rỗi linh hồn ông con, bà con,… Đơn giản như vậy nhưng khi chúng ta làm vì một lòng yêu mến thì rất hữu hiệu cho việc cứu rỗi mà không làm gánh nặng cho chúng ta. Một ngày chúng ta sống làm việc vất vả như một người vô thần, nhưng khi chúng ta biết làm tất cả vì lòng yêu mến để cứu rỗi những người đã ra đi trước chúng ta thì ơn cứu độ lập tức đến với những người đó. Nhiều người lo lắng con không có tiền để xin lễ. Nhưng không! Tiền không mua được Thánh lễ. Thánh lễ là vô giá. Không ai mua được giá máu Chúa Giêsu cả. Đừng để cho chủ nghĩa duy vật thấm nhập chúng ta, đừng để tinh thần của chủ nghĩa vô thần sống trong chúng ta. Chúa có cần cái đó không ? Cái đó chỉ là để giúp đỡ Giáo Hội, giúp đỡ những người sống đời sống tu trì một chút chứ chả có gì có thể mua được Thánh lễ. Việc lớn nhất là chúng ta hãy làm tất cả, hãy đón nhận tất cả mọi sự vì lòng yêu mến Thiên Chúa và chỉ cho các đẳng linh hồn thì đó là cái giá trị nhất. Một việc bé nhỏ thôi, một sự nhẫn nhịn thôi, một sự khiêm tốn thôi, một sự đón nhận thôi mà vì lòng yêu mến thì có khả năng cứu rỗi những người mà chúng ta xin. Chúa nói: Ai cho người này một chén nước lã vì họ là môn đệ Thầy thì sẽ không mất phần thưởng đâu. Thiên Chúa chúng ta giàu sang vô cùng đã trở nên nghèo khó để dùng chính cái nghèo khó mà làm cho chúng ta được giàu sang. Đối với Chúa không cần duy vật. Nhưng bằng trái tim, bằng lòng yêu mến chân thành dành cho những người đó, và dành cho chính Thiên Chúa. Điều đó mới mang lại ơn cứu độ, ơn giải thoát cho những đấng bậc đã ra đi trước chúng ta.
Xin Chúa Giêsu – Đấng đã chết và đã sống lại, đấng đã làm cho Lazaro cũng như con trai bà góa thành Na-in sống lại. Là Đấng sẽ làm cho tất cả chúng con được sống lại. Xin giúp chúng con biết vững tin vào Chúa để luôn luôn sống mà chả bao giờ chết. Và xin cho chúng con biết hy sinh từng ngày sống của cuộc đời để cầu nguyện cho các đấng bậc đã ra đi trước chúng con. Đó là chính yếu mà giới răn thứ tư Chúa đòi buộc chúng con. Amen
Maria Minh Hướng
Truyền thông Svconggiao.net